Ngày 25 tháng chạp Tết Bính Ngọ1966, tôi đáp chuyến máy bay Hàng Không Việt Nam từ Sài gòn về Nha Trang để ăn Tết với Thầy Bu và các em tôi . Đây là cái Tết đầu tiên đánh dấu cuộc đời lang bạt kỳ hồ của tôi nên Thầy Bu tôi và các em tôi mừng không sao kể xiêt mà ngay cả con chó Ky Ky cũng tíu tít chạy tới chạy lui vẫy đuôi, cụp tai, miệng rít lên nho nhỏ như muốn nói gì. Sau đó tin đầu tiên tôi được Bu tôi và Ngoạn cho biết là Quang, Nguyễn Minh Quang, một trong những người bạn học thân ở Võ Tánh mới mất hôm 23 tháng chạp vì bệnh uốn ván. Tôi bước ra sân trước, chỗ mấy cây mãng cầu dai (người Bắc gọi là cây na) của thầy tôi, để xem con chim gáy của tôi thì được Bu tôi cho biết đã đưa cho Quang để mang về nuôi dùm vì tôi đi vắng nên không có ai chăm nuôi được.
Hôm giỗ thất đầu của Quang, tôi đến thăm Quang. Nhà Quang nằm sâu trong khu Phước Hải, giữa một vùng đồng ruộng có nhiều hàng dừa cao luôn luôn tươi mát. Má Quang là một người dàn bà nhà quê chất phát trăm trăm phần trăm, quanh năm suốt tháng sống với ruộng lúa vườn rau Ba Quang là thư ký kỳ cựu của một trường Trung Học. Các anh em của Quang đều được ăn học đầy đủ tới nơi tới chốn. Tôi đến nhà gạp lúc đã cúng xong, tôi lại bàn thờ Quang thắp nhang cho Quang và đứng lặng hồi lâu không nói nên lờị Má Quang cho biết Quang chỉ bị cảm sơ thôi, nhưng ở nhà đã cắt lể cho Quang, có lẽ vì thế đã nhiễm trùng uốn ván chăng. Trước kia Quang cũng từng cắt lẻ nhiều lần như vậy nhưng vô sự . Lát sau, các em Quang dẫn tôi ra thăm mộ Quang ở phía sau nhà gần một bụi tre lớn, bên một con mương. Cũng vừa lúc ấy, tôi thấy thấp thoáng mấy tà áo dài trắng bên cạnh ngôi mộ đất còn mới chưa xây gạch đá. Trong số những tà áo trắng đó tôi nhận ra một người con gái đó là Chi - Lan . Tôi trở vô nhà. Con chim gáy của tôi cho Quang thấy người tung cánh nhảy nhót trong lồng.
Ngày tháng qua mau, tháng 9 năm 1968, tôi phải lên đường trình diện nhập ngũ theo lệnh tổng động viên cùng với nhiều bạn bè trang lứa giã từ sách vở bút nghiên, tập đi một hai, tập vượt đoạn đường chiến binh, tập bị phạt dã chiến, hít đất, thụt dầu và bắn súng garant M1 ... Tháng 4-1969, rời trường Bộ Binh Thủ Đức ra đơn vị, trôi nổi từ vùng 1 giới tuyến về vùng 4 đồng bằng Cửu Long trù phú để rồi cũng lại tháng 4 oan nghiệt năm 1975, thì tan hàng cởi bỏ áo lính, mặc áo tù. Từ một miền rừng núi xa xôi của miền Trung, hai năm sau, tôi nhận được thư của Trang, một người bạn học Võ Tánh cũ, gửi lời hỏi thăm và báo rằng đã lập gia đình với một người bạn đời mà có lẽ cũng là chỗ quen biết. Tôi cũng mừng cho Trang vì dầu sao tôi cũng đã yên bề gia thất và đã có một mụn trai để Sanh, vợ tôi an ủi, trong khi Trang vẫn lông bông. Hai đứa tôi là bạn nhiều năm qua và cùng có nhiều kỷ niệm từ những lúc khó khăn gian nan nguy hiểm. Ngày tôi nhập ngũ, Trang ở trong số mấy người bạn tiễn chân tôi lên xe của phòng TM Nhập Ngũ Khánh Hoà. Ngày tôi chuẩn bị trình diện học tập, Trang cũng đã cùng tôi trải qua những cuộc say lướt khướt. Sáu năm sau, từ trại cải tạo được thả về Nha Trang, tôi đến nhà thăm Trang và ba má Trang, vì trong thời gian đi cải tạo, tôi thường gửi thư về địa chỉ nhà Trang để nhờ trao lại cho Thầy Bu tôi . Tôi hỏi vợ Trang là ai, Trang trả lời: Chi-Lan, mày còn nhớ Chi-Lan không?
Trước khi được đi định cư ở Mỹ, tôi thường về Nha Trang để thăm Thầy Bu và các em tôi. Tôi cũng có đến nhà chào ba má Trang và ra Lương Sơn thăm vợ chồng Trang. Lúc ấy Chi-Lan coi trạm Bưu Điện Lương Sơn. Tôi mượn xe đạp của mấy đứa em vượt đèo Rù Rì thả dốc một chăng dài thì tới Bưu điện, ngay sau Ga Lương Sơn. Vợ chồng Trang ở và làm việc ngay tại Bưu điện. Trang đã có hai con, một trai một gái đều dưới 10 tuổi Trang cũng có một con trai nuôi độ 13 tuổi khá lanh lẹn và lễ phép. Trang có một tủ thuốc lá trước nhà ngay lề đường, bán cho khách xe đò từ Ninh Hoà hoặc đàng ngoài vàọ Trang còn có một cái nhà tranh ở bên cạnh cho thuê để khách lỡ đường nghỉ ngơi Chi Lan thì lo chuyện của Trạm, đón nhân. thư từ và phân phối thư cũng như điện tín và điện thoạị Trang giữ tôi ở lại chơi qua hôm sau hãy về. Buổi chiều, có mgười mang một lô cua biển đã luộc sẵn đến biếu Trang.
Trang cho biết mấy người có thân nhân nước ngoài thường nhận quà và thư nên mua cảm tình. Chúng tôi ăn cua luộc và uống rượu gạo do Trang nấu đến khuyạ Lần ấy lần đầu tiên, Chi-Lan nói chuyện với tôi và gọi tôi bằng tên thân mật. Chi-Lan hỏi về những người bạn cũ ngày xưa cả trai lẫn gái đã lâu không tin tức. Tôi chờ Chi-Lan hỏi về Nguyễn Minh Quang nhưng Chi-Lan đã không hỏi và tôi không biết sao cũng không đề cập tới để cho đến bây giờ, mười mấy năm sau, tôi vẫn thấy làm áy náỵ Sau đó ít lâu, tôi lên đường đi Mỹ. Trong số bạn bè đến dự buổi tiệc chia tay và tiễn tôi ra sân ga Nha Trang có Trang, có cả vợ chồng Ngô Đạm - Hồ thị Ky nhưng không có Chi-Lan .
Tháng trước, tôi đến thăm một người đồng hương Nha Trang mới đến định cư ở Mỹ. Sau khi nói chuyện thì biết được chị người Lương -Sơn. Chị có người con dâu là bạn quen với các con của Trang và Chi-Lan. Chị cũng là chỗ quen biết với vợ chồng Trang. Được biết tôi là bạn thân cũ của Trang chị bắt đầu kể, giọng đặc Nha Trang:
- Tội lắm, hai vợ chồng và đứa con đi ăn cưới ở Phan -Rang. Đi bằng chiếc xe Dream mượn của một người bạn cũng ở Lương Sơn. Lúc đi thì không saọ Khi về, người ta biếu bịch nho tươị Chị vợ ngồi sau ôm bịch nho, đứa con ngồi giữa Qua một ổ gà, xe giòng, chị vợ sợ rớt bịch nho mới buông tay ôm chồng ra để chụp. Cả ba người cùng té xuống đường. Chị vợ nặng nhất vì bị thương ở đầu, mang vào nhà thương, ba bốn ngày sau thì mất . Anh Trang ôm cột đèn khóc lóc thảm thiết. Ngôi nhà mơi xây bây giờ vắng tanh, tối ngày đóng cửa im lìm. Chuyện xảy ra đã lâu Anh Trang buồn không thiết tha gì nữa cả ngay đến chuyện lấy vợ lại.
Tôi ra về buồn như chính nỗi buồn của mình. Mỗi người có một số mệnh mà không ai biết trước. Tôi thấy đâu đây một Chi-Lan với mái tóc dài bay bay và tà áo dài trắng phất phơ với chiếc áo len màu xanh nhạt, nét mặt rạng rỡ, đạp xe đạp dạo quanh phố biển trong một ngày gió lộng cùng mấy cô bạn. Tôi thấy Chi-Lan trầm lặng trong những buổi sinh hoạt của GDPT và trong những buổi bãi khóa xuống đường của học sinh Nha Trang . Tôi thấy Chi-Lan, đạo mạo trong cô giáo của vườn trẻ Măng Non trên đường Độc Lập. Tôi thấy Chi-Lan với giọng Huế nhẹ nhàng, hỏi chuyện tôi về những người bạn cũ đã hơn hai chục năm không gặp. Và cuối cùng tôi thấy Chi-Lan thấp thoáng trong tà áo dài trắng bên ngôi mộ mới của NMQ. Tất cả như mới hôm nào, như mới hôm qua.
Bây giờ ngồi đây viết những giòng chữ này tôi tự dưng nhớ tới một bài thơ của một tác giả tiền chiến, thi sĩ HK mà một nhà văn nào đó đã lấy một trong câu thơ để làm tựa đề cho cuốn truyện của ông viết về một cuộc tình xảy ra ở Lương Sơn "Hạ Đỏ Có Chàng Tới Hỏi”. Nhưng tôi lại muốn nhắc lại mấy câu cuối của bài thơ:
Đông sang có chàng tới hỏi
- Em thơ chị đẹp em đâu
- Chị Tôi khăn trắng cài đầu
Đã ngủ trong hầm mộ tối”
Xin chúc Chi Lan một giấc ngủ bình yên bên kia đại dương dưới lòng đất nhưng không phải một địa ngục tối
VA, mùa Ve sầu 2004
Phùng Văn Nguyên
|