Vụ nổ kho đạn làm chấn động từ miệt Long Khánh đến các tỉnh Biên Hoà, Gia Định và thủ đô Sàigòn, thân nhân từ các vùng lân cận rầm rộ kéo về dò la tin tức. Cộng sản vội vàng di chuyển toàn bộ tù Long Khánh đi nơi khác. Bốn khối của tiểu đoàn chúng tôi đi KàTum bằng xe vận tải molotova của Liên sô. Trung đội (A) tôi bị chia làm đôi, tôi lên chiếc xe cuối cùng với khoảng hơn một chục người và các dụng cụ nhà bếp, gồm khoảng trên một chục chảo gan lớn và nặng, đường kính hơn cả mét, loại chảo dùng để nấu canh nấu cơm thường xử dụng trong ban hỏa thực thời trước. Molotova là loại xe chở quân của Cọng sản, nhỏ hơn GMC của miền Nam, bốn bánh cao lềnh nghềnh dùng để băng rừng, lội nước, không thích hợp với việc chuyên chở trên các tuyến
đường bằng phẳng. Xe chở quá nặng, tài xế ngủ gục, xe đảo qua đảo lại trên đường cái nhiều lần. Tôi cầu xin tai nạn đừng xảy ra. Trường hợp tai nạn nếu không bị xe đè thì hơn chục chiếc chảo cũng cắt đôi người ra. Và điều chúng tôi lo ngại đã xảy ra, khi ngang qua ven đô Sàigòn, xe chở chúng tôi mất thăng bằng và đâm đầu xuống hố, quay một vòng rồi nằm ngửa đưa bốn bánh lên trời. Tôi và đồng bạn tù may mắn bị hất văng ra trước khi xe lật. Trước lúc mê man, tôi nhận ra mình còn sống và chưng vài phút sau đó không hay biết gì thêm. Đến lúc tỉnh, thấy tất cả anh em đang nằm ngồi la liệt dưới đất, máu chảy xuống nền xi-măng từng vũng kéo dào từ cửa ra vào đến tận nơi chúng tôi. Đầu tôi đau như búa bổ, máu chảy ra từ đầu, mũi và hai tai. Đưa tay rờ quanh người, may mắn tay chân vẫn còn nguyên vẹn. Bên cạnh mấy người bạn nằm yên như chết, có người bị chảo gang chặt đứt lỗ tai, có người bị đứt cánh tay nhưng không dám lên tiếng hỏi thăm ai sống ai chết hay bị thương ra sao. Ba vệ binh đang chĩa súng vào chúng tôi sẵn sàng bóp cò nếu có một phản ứng nhỏ nào. Định thần một lúc mới nhận ra đây có thể là nhà thương (sau nầy mới biết là bệnh viện Chợ Rẫy) và thấy một số người lấp ló nhìn chúng tôi từ phía xa. Tên quản giáo nói vọng vào với mấy y tá :
- Nhìn cái gì ? Đây là những tên cướp cực kỳ nguy hiểm, cách mạng vừa bắt được ngoài chợ, chúng tôi đưa vào tạm vào đây đợi xe đến chở đi.
Người bạn nằm cạnh tôi còn tỉnh, giả vờ rên để gây chú ý các y tá đồng thời đưa ba ngón tay lên trên vai mình. Tức thời nghe tiếng người phía trong hối thúc thông báo cho nhau :
- Không phải là bọn cướp mà sĩ quan cải tạo !
Sau câu xác định của người nào đó, tôi nghe tiếng chân người hấp tấp đi chuyển chung quanh và một người đàn ông mặc áo blouse trắng tiến đến gần tên quản giáo thưa :
- Thưa ông, dù họ là những tên cướp, xin ông cho phép chúng tôi băng sơ cầm máu, để vậy mấy người sẽ chết tại đây.
Không hiểu tại sao, tên quản giáo suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nhưng vẫn ra lệnh nhắc chừng :
- Tôi yêu cầu không được trò chuyện hỏi han bất cứ chuyện gì. Bọn chúng là những tên trộm, giết người cướp của rất nguy hiểm.
Vừa được lệnh, gần như y tá, bác sĩ khu cấp cứu kéo đến đứng bít kín cả cửa ra vào. Riêng mấy cô y tá và một nam bác sĩ, tôi đoán như vậy, cũng có mặt trong đám người nầy. Tôi được hai y tá săn sóc, một người tận tình băng từ đỉnh đầu xuống quá hai lỗ tai, chỉ chừa một con mắt để nhìn, còn người kia cố tình lách qua lách lại che khuất quản giáo và tên vệ binh đang đứng gần tôi, cúi sát hỏi nhỏ :
- Anh là sĩ quan cũ ?
Tôi gật đầu không nói thêm một câu nào.
Cô ý tá nói tiếp :
- Anh cho biết địa chỉ sáng mai tôi sẽ thông báo người nhà.
Cô y tá kéo tôi vào sát người cô, vừa chùi vết máu hai bên cổ, tai và sau ót vừa lắng tai nghe tôi :
- Vợ tôi tên ….ở số….đường Ngô Tùng Châu Gia Định, ngay ngã tư Xóm Gà.
Tôi nghe cô lặp lại hai ba lần mục đích để mấy người y tá chung quanh cùng nhau ghi nhận. Tên quản giáo ra lệnh cho y tá phải khẩn trương và bước ra ngay sau khi xong việc. Một cô nhét vào túi tôi gói gì đó còn cô kia lấy đôi dép nhật đang mang trên chân mình mang vào chân tôi rồi hai người hấp tấp lui ra. Chừng một giờ sau, tên quản giáo ra lệnh cho tất cả mọi người lui xa chỗ chúng tôi đang nằm và bắt chúng tôi tự động dìu nhau ra sân để lên xe đi tiếp.
Sau khi tấm bạt sau được buông xuống, trong xe tối đen như mực, tôi lần tay vào túi lôi ra gói giấy mò mẫm và nhận ra trong đó một khúc bánh mì, mấy chiếc bánh ngọt và một ít tiền. Thật cảm động, lúc đó cũng khoảng bốn giờ sáng nhưng họ đã cố gắng kiếm được miếng bánh, ít kẹo và tiền để cho chúng tôi. Tôi nói nhỏ cho mấy người bạn bên cạnh hay, các anh cho biết họ cũng nhận được những thứ như vậy.
Đến sáng xe dừng lại, tấm bạt được kéo lên, chúng tôi thấy mình đang đứng trước mấy dãy nhà tranh ở sâu trong rừng và vệ binh dẫn chúng tôi vào một căn nhà trống. Mười phút sau những người bạn tù cùng cảnh ngộ phải chia tay mỗi người đi về một trại khác nhau. Nhóm chúng tôi bốn người được một vệ binh dẫn băng qua rừng, đi bộ một đoạn đường chừng hai cây số đến trước một dãy nhà khác. Sau nầy chúng tôi biết đó là ban chỉ huy tiểu đoàn tù, và bốn chúng tôi bị chia ra cho bốn khối khác nhau. Khi tôi được dẫn về khối thì anh em tù đang lao động trong rừng. Vệ binh đưa tôi về lán (căn nhà bằng tre lợp lá dài khoảng 20 mét dành cho một B chừng 50 tù) nằm gần nhà bếp và bảo ngồi đợi, khối trưởng và B trưởng sắp xếp chỗ ngủ cũng như công việc cho ngày hôm sau. Trong lúc chờ, một ông tù già bệnh hoạn được làm việc nhẹ như nấu ăn, nuôi heo cho khối… đem đến một miếng cơm cháy và ít muối bọt, bảo tôi ăn cho đỡ đói. Trả lời thắc mắc của tôi, ông cho biết tên Rạng, nguyên là thượng sĩ già đã đến tuổi hưu, nhưng cố nán thêm một thời gian ngắn đủ thâm niên để lên chuẩn úy. Quá xui cho ông già, cặp quai chảo vừa gắn lên cổ áo cũng là lúc khăn gói lên đường đi tù chung với mấy anh em sĩ quan trẻ. Cũng may ở đây thấy ông già lụm khụm, ốm như con mắm nên đã ân huệ cho ông công việc nhẹ nhàng : Anh nuôi tù kiêm luôn nuôi lợn của bộ đội. Tiếp đến các anh làm trong tổ mộc tổ rèn đến thăm hỏi đủ thứ chuyện bên ngoài, lúc đó họ mới hay vụ nổ kho đạn ở Long Khánh và tôi biết được tên trại tù của tôi là KàTum nằm sâu trong rừng rậm.
Đến chiều đoàn tù lao động trở về, nghe có người bị thương vì lật xe và được chuyển đến đây nhưng không ai dám vồn vã thăm hỏi, khi ngang qua chỉ đưa tay vẫy chào một người bạn bất hạnh mới đến, vì lúc đó trên đầu tôi vẫn còn quấn mấy lớp băng trắng dính máu. Một người trong đám tù tách đám đông chạy lại ôm tôi mừng rỡ :
- Ông thầy. Trời xui đất khiến mình gặp nhau tại đây, thật vui vẻ. Như vậy từ nay ông thầy có bạn rồi.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta nhưng chưa nhận ra ai, nên hỏi lại :
- Anh biết tôi ?
- Em học với thầy năm 1966, thầy nhớ không ?
- Ở đâu, lớp mấy ?
- Đệ nhất A, La-San Bá-Ninh, Thầy cùng dạy chung với hai sư huynh Casimir và Raymond.
- Bây giờ thì nhớ ra rồi, Yên phải không ? Mấy ‘mai’ mà vô đây ?
- Dạ hai, em sẽ đổi với thằng bạn để thầy ăn cơm và làm việc chung một tổ với em.
- Thầy bà cái quỷ gì nữa ! Đã vào đây cá mè một lứa thì mầy tao cho tiện.
- Thôi xin phép gọi bằng anh.
Cũng may trong lán có sẵn chiếc giường tre của một anh tù vừa được chuyển đi trại khác. Yên thấy tôi vui vì khỏi bận tâm về chỗ ngủ, anh vừa cười vừa nói :
- Nằm dưới thằng Khánh và kế thằng Huân đôi khi điên người lên được. Chưa có chỗ trống anh nằm tạm đây vài bữa, có thằng nào đi thì anh qua chỗ mới.
- Gì vậy ?
- Để tối anh sẽ hay.
Vừa đau đầu vừa rêm người vừa mệt nhưng không cách nào chợp mắt vì anh chàng Khánh nằm trên cứ lải nhải :
- Chuyến nầy tao về, tao sẽ bỏ. Nhất định tao sẽ bỏ !
Trong đêm cứ nghe anh lặp đi lặp lại cả chục lần. Sáng hôm sau gặp anh đang rửa mặt tại giếng, tôi hỏi anh lý do, anh không trả lời thẳng câu hỏi của tôi mà chỉ lặp bặp trong miệng câu nói cũ, lần nầy về tao sẽ bỏ !
Một người bạn đứng bên cạnh nói với tôi :
- Mới nghe thấy lạ tai chứ tụi tôi chán quá, chán quá…
Hắn cứ tưởng bở đòi bỏ người ta, chứ thật ra người ta đã bỏ nó từ khuya hay bị nhà nước quản lý mẹ nó rồi còn gì mà bỏ với không. Tôi rất khó ngủ, nhiều lúc vừa chợp mắt đã bị dựng dậy bằng câu nói nầy. Một lần được chia vào làm việc trong tổ rau với Khánh, tôi tâm sự với anh ta :
- Quên đi Khánh, chắc chắn người ta bỏ anh rồi, bận tâm làm gì nữa. Thân tù tội mình đâu ra gì mà đòi bỏ người ta !
Khánh nhìn tôi lắc đầu :
- Không anh, tôi chuyến nầy về nhất định phải bỏ.
Hết can đảm nghe tiếp, tôi hơi xẳng giọng :
- Bỏ cái gì ?
Anh nhìn tôi một hồi rồi thú thật :
- Tôi sẽ bỏ, sẽ bỏ vô !
- Tôi không hiểu.
- Trước đây chỉ để ở ngoài mà thôi, lần nầy về nhất định sẽ bỏ vô không ‘gìn vàng giữ ngọc’ và nương tay với em nữa !
À bây giờ tôi là người đầu tiên hiểu câu chuyện của anh, đành khuyên một câu :
- Biết còn không để đến phiên anh. Tôi chắc chắn thằng khác đã bỏ vô từ khuya rồi !
Kể từ lúc tâm sự với tôi, Khánh không còn lải nhải mỗi đêm chuyện cũ nhưng lại bắt đầu câu khác :
- Ngu quá không chịu bỏ vô lúc đó bây giờ ân hận !
Anh em trong lán khám phá ra bí mật của Khánh, họ đồng thanh chê :
- Mày ngu hơn con bò cái !
Tôi cãi lại :
- Người ta nói ngu như bò đực chứ có ai nói ngu như bò cái đâu.
Yên nằm bên cạnh cười lớn :
- Té ra anh cũng thật thà, bò đực thì ngu thật nhưng ‘cu’ của nó đâu có ngu, gặp bó cái là nó cỡi liền !!!
Kể từ hôm đó Khánh bị chê ngu như bò cái làm anh thẹn và không còn lảm nhảm hằng đêm nữa.
Một tối đến giờ ngủ, có người lên tiếng :
- Ông thầy đã trị được thằng Khánh bây giờ tính luôn thằng Huân cho anh em nhờ.
Vừa dứt câu nói, cả chục người lên tiếng phản đối ngay :
- Chuyện thằng Khánh thì được nhưng chuyện ăn phở của thằng Huân thì không nên. Lâu lâu phải để nó kể nghe cho đỡ buồn.
Một giọng khác ở cuối lán :
- Nghe xong nước miếng tràn đầy họng, ức thấy mẹ !
Bây giờ Huân mới lên tiếng :
- Đã nghe chùa mà còn lộn xộn, hôm nay tao kể tặng ông thầy mới đến. Thằng nào không nghe thì bịt tai lại.
Mấy anh nằm gần tôi đồng thanh :
- Ừ kể nhanh lên còn ngủ sớm.
Huấn vừa lên tiếng, ‘Phở đây’, và bắt chước gõ vào thanh giường tre giống như xe bán phở ngày trước, nhiều người đồng thanh :
- Dẹp phở xe đi, ăn phở gà ở Hiền Vương hay phở xe lửa, phở tàu bay ở Lý Thái Tổ xem bộ ngon hơn.
- Nghèo mà ham, nhưng muốn thì tao cho ăn.
Huân nuốt nước bọt rồi cất giọng :
- Đang ở tù tại Kàtum, tao được cách mạng ưu ái cho đi phép một tuần. Thấy tao về con vợ nó mừng hết lớn nhưng tao chưa làm ăn gì vội, thèm phở quá, bay ra ngay đường Lý Thái Tổ chơi luôn một lèo hai tô trước đã.
Có tiếng anh nào đó phía cuối lán :
- Dóc tổ mẹ. Ông mà về phép thì ông ‘làm’ vài quả với vợ trước, còn chuyện ra Lý Thái Tổ ăn tô phở thì hạ hồi phân giải.
Ồn ào lại nổi lên giữa hai phe, ‘làm’ trước hay ăn trước ! Lập luận nhóm nào cũng đúng. Không làm trước thì ức mà không ăn trước thì thèm. ‘Làm’ và ‘ăn’ là hai hành động mà bất cứ anh tù nào ngày đêm mơ ước. Không có đối tượng thì ‘làm’ tay, không có gì thì ăn ‘hàm thụ’. Cứ mỗi lần nghe đề cập đến hai vấn đề nầy trông anh nào cũng thẫn thờ mày mặt, nước miếng trào ra rồi những cuộc tranh luận lại nổi lên, ai cũng cho quan niệm của mình đúng. Ở trong tù chỉ có muối và bo-bo, đã ăn hàm thụ mà anh nào còn thích ‘làm’ tay nữa thì chắc chết sớm. Nếu sống sót trở về, thứ thiệt ở ngay bên cạnh cũng chẳng nên cơm nên cháo gì! Rồi anh nầy tố giác anh kia là vua độc ‘thủ’, đêm nào cũng đi mây về gió nên người chỉ còn bộ xương cách trí, mắt thì lờ đờ như mắt cá dở sống dở chết trên bờ.
Yên nằm cách tôi vài giường, bực mình gắt lớn :
- Tất cả im đi ! muốn ăn phở hay quản giáo xuống nó dũa cho mà nghe bây giờ ?
Anh trung đội trưởng tù yêu cầu Huân :
- Tiếp tục đi mầy, tao đang thèm đây.
Huân dẫn anh em ăn phở trong bóng tối :
- Bồi, cho mấy tô phở đặc biệt. Nhớ lấy nhiều thịt ít bánh ! Tô lớn, nước trong. Tái, gân, nạm, gầu, sụn, ngầu pín, bò vò viên gì phải đầy đủ. Một chén lớn nước béo và một dĩa hành trần. Các loại rau, giá, quế, ngò gai cũng đem ra. Thứ nào ông cũng ăn ráo ! Trong lúc chờ phở, đem ra ngay tô xí quách gặm chơi cho đỡ buồn… Xí quách mang ra, trời ơi, xương còn dính quá nhiều thịt, cầm lên đưa vào miệng cạp một miếng, nước thịt ngọt lịm thấm vào từ đầu lưỡi đến tận chân răng, rồi chạy ngay xuống cuống họng ! Um !.Tất cả vị, xúc, thính, khứu, thị giác người đều tê mê khoái cảm. Chẳng thèm để ý khách trong tiệm làm gì, cứ cầm cục xương gặm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài như mấy chú cẩu, thế mà ngon đấy phải không các bạn ! À, còn hơn chú cẩu nữa, đưa đầu cục xương vào miệng, hút mạnh một cái, tủy chạy vào miệng nghe một cái ọc….Ùm, chao ôi, đã ơi là đã !
Khánh nằm trên tôi ngắt ngang :
- Thôi ngưng lại đi mày, tao hết chịu nổi.
Mấy người khác phản đối :
- Chưa ăn mà, mới gặm xương khai vị, tiếp tục đi Huấn.
Nghỉ một lát, Huấn tiếp tục :
- Phở đây ! Phở đây ! Khoan ăn, hãy cúi xuống sát miệng tô, hít một hơi thật dài để thấy hương vị của tô phở. Mùi thơm, ngọt, béo, bùi của tủy xương, của thịt, của mỡ ninh chung với hồi, quế, hành trộn lẫn với hương vị đặc biệt của bánh phở tươi trụng nước sôi, cọng thêm mùi thơm đặc biệt của nước mắn, tiêu hành bột ngọt….Nước miếng chảy ra đầy miệng rồi phải không ?
Nhưng khoan ăn, nếm thử xem mặn lạt trước đã, rồi vắt miếng chanh, thêm tí nước mắm nhỉ, rắc một ít tiêu, xong chưa ? Nếm thữ lại một lần nữa nếu chưa vừa ý ? Phải ngắt cọng tàu bay, vài lá quế cho đủ gia vị. Đủ chưa ? Cũng chưa, thì phải thêm vài khoanh ớt mới đúng điệu ! Bây giờ mời tất cả ăn….ngoàm ngoàm... Sao, có thấy thịt tái mềm không ? Mấy miếng nạm bùi không ? Gân có nh
|