Chợ làng Chuông họp mỗi tháng 6 phiên, chỉ bán một thứ hàng duy nhất là nón. Đến phiên chợ mới thấy hết được những sắc màu rực rỡ của một làng nghề truyền thống. Màu trắng của nón lấp loá khắp nơi xen lẫn sắc hồng trên má các cô thôn nữ, cùng những tiếng cười giòn tan làm cho không khí trong chợ càng thêm đậm đà bản sắc quê hương…
Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông
Làng Chuông huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nằm cách Hà Nội 40 km, nổi tiếng với nghề làm nón lá từ hàng trăm năm nay. Làng có trên 2.000 hộ dân, đất đai vốn dĩ khô cằn nên từ lâu dân làng đã làm thêm nghề phụ. Làm nón lá là một trong những nghề truyền thống khá thành đạt.
Từ lâu nay hình ảnh người phụ nữ thướt tha trong tà áo dài truyền thống với chiếc nón lá hoặc áo tứ thân, nón quai thao đã in đậm trong tâm thức người Việt. Chiếc nón lá theo người phụ nữ trên mọi nẻo đường. Từ đồng ruộng lam lũ đến công trường nắng gió. Nón làng Chuông vốn rất đẹp lại bền, làm tăng thêm vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt Nam. Xa xưa nón làng Chuông là cống vật tiến hoàng hậu, công chúa bởi vẻ đẹp rất riêng được làm nên bởi những bàn tay tài hoa khéo léo của các nghệ nhân lành nghề. Ngày nay, nón làng Chuông có mặt khắp nơi, cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước. Trung bình mỗi ngày, dân làng làm được khoảng 7.000 chiếc nón đưa đi khắp nơi, sang cả Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Âu.
Để làm được chiếc nón cũng mất khá nhiều công. Đầu tiên là chọn lá. Lá lụi được đem về vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không ròn không rách. Vòng nón làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Tiếp theo người thợ xếp từng lá vào vòng nón, một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi khâu. Khâu là một công đoạn rất khó bởi không khéo là rách lá ngay. Bàn tay người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt mềm mại từng mũi khâu thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài. Khi chiếc nón được khâu xong, người thợ hơ bằng hơi diêm làm cho màu nón trở nên trắng muốt và giúp nón không mốc.
Xưa kia làng Chuông làm nhiều loại nón. Nón ba tầm làm cho các cô gái, nón nhọn, nón chóp cho đàn ông. Từ năm 1940 đến nay thợ làng Chuông chỉ làm một loại nón. Ông Hai Cát, giờ đã 84 tuổi là người có công đưa nón Xuân Kiều, còn gọi là nón Ba Đồn về làng sản xuất thay cho các loại nón cổ. Hiện nay làng chỉ còn gia đình hai nghệ nhân chuyên làm nón cổ. Đó là nhà ông Lê Văn Tuy làm nón chóp và nhà ông Trân Văn Canh làm nón ba tầm -còn gọi là nón quai thao. Nón quai thao làm thì khó mà lại ít được ưa chuộng nên tương lai cũng khó phát triển. Theo ông Canh, làm nón - nhất là nón quai thao không thể đủ sống. Ông làm là vì muốn bảo tồn một sản phẩm truyền thống, giữ cho nó không bị mất trong cuộc sống đương đại và để con cháu biết giữ gìn nó.
Chợ làng Chuông họp mỗi tháng 6 phiên chính vào các ngày 4 và 10. Điểm đặc biệt là chợ này chỉ bán một thứ hàng duy nhất là nón. Nón được xếp thành chồng dài trắng xoá cả một vùng. Nghề làm nón thích hợp với phụ nữ và phụ nữ cũng là khách hàng chính. Các phiên chợ làng thu hút rất đông các bà các cô. Đến phiên chợ làng Chuông mới thấy hết được những sắc màu rực rỡ của một làng nghề truyền thống. Màu trắng của nón lấp loá khắp nơi xen lẫn sắc hồng trên má các cô thôn nữ cùng những tiếng cười giòn tan làm cho không khí trong chợ càng thêm đậm đà bản sắc quê hương. Làm nón cũng là một cách làm kinh tế. Nhiều gia đình nhờ làm nón đã nuôi các con ăn học hết đại học. Nhưng hơn cả là người dân làng Chuông từ người già đến em nhỏ đang ngày đêm gìn giữ một nghề truyền thống có giá trị.
Phú Đức